Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

Ghi chép từ Hội nghị Những người viết văn trẻ TP.HCM lần thứ 3:


Những ấn tượng trẻ khó quên

ĐỒNG CHUÔNG TỬ

Sau gần 5 năm mong đợi, vào lúc 14 giờ ngày 27.5 tại Bến Nhà Rồng (chi nhánh Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Thành phố Hồ Chí Minh), đã chính thức khai mạc Hội nghị Những người viết văn trẻ lần thứ 3. Hơn 100 đại biểu và khách mời văn trẻ đã về tham dự. Không khí buổi khai mạc trầm lắng, trang nghiêm.
Có một điều ngoài rìa, tưởng chừng không đáng chú ý ở đây là việc từ cổng vào trung tâm Hội nghị không có băng rôn chào mừng hoặc chí ít bảng chỉ dẫn. Các nhà văn, nhà thơ trẻ về dự “lơ ngơ” đi vào đều được bảo vệ của Bảo tàng gọi lại hỏi, rồi mới chỉ tay về hướng cần đến.
MC của Hội nghị là nhà thơ “bự con” Phạm Sỹ Sáu, phó chủ tich Hội Nhà văn TP.HCM. Ông là một người lính từng cầm súng ở nhiều mặt trận, trong đó có mặt trận ở Campuchia.
Tiếp theo lời khai mạc của nhà thơ Lê Quang Trang - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM, nhà thơ Phan Hoàng - Uỷ viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Nhà văn trẻ đã đọc tham luận đề dẫn mở đầu cho tham luận của các nhà văn trẻ: Nguyễn Thu Phương, Ngô Thị Hạnh, Trần Minh Hợp, Lê Thiếu Nhơn, Huỳnh Mẫn Chi, Nguyễn Lệ Chi… Nhiều vấn đề “nóng” của đời sống văn học trẻ đã được đưa ra với nhiều góc nhìn khác nhau.
Những khách mời đặc biệt là những nhà văn “cây đa cây đề” như Nguyễn Quang Sáng, Vũ Hạnh, Trần Kim Trắc, Lê Văn Thảo lần lượt được mời lên cầm “cây bút micro” để “phóng” chuyện. Mỗi người “phóng” một ít, gom lại cũng được “năm hay sáu trang âm thanh”.
Vì dành thời gian hơi nhiều cho các bậc lão thành nên nhiều tham luận của các nhà văn trẻ như Trần Hoài Anh, Đồng Chuông Tử, Trương Anh Quốc, Phương Trinh, Lê Thuỳ Vân,… đành phải chuyển về hội thảo ở Cần Giờ.
 Như vậy, phần “nghị” đã được “gọt” lại cô đọng, tinh giản đối với những đại biểu nhà văn trẻ.
16 giờ 30 phần “nghị” kết thúc, sớm hơn 30 phút so với lịch trình.
Phần “hội” được nối vào sau đó, ở một nhà hàng ẩm thực ven sông, cách Hội trường hội nghị khoảng trăm mét. Không khí buổi “hội” này thật rôm rả, vui tươi trong làn gió mát sông Sài Gòn. Và cùng bắt tay nhau hẹn ở Cần Giờ vào hôm sau…
Khoảng 13 giờ ngày 28.5, đông đảo đại biểu nhà văn trẻ đã tập trung tại Văn phòng Hội Nhà văn TP.HCM, số 62 Trần Quốc Thảo, Quận 3.
Khoảng 13 giờ 45 phút thì chiếc xe chở đại biểu đến. Đúng 14 giờ xe lăn bánh, mang theo hầu hết những tài năng trẻ văn chương của thành phố đi tham quan một số công trình đã định trong lịch biểu.
Có một chuyện hi hữu gây “ngỡ ngàng” thoáng chốc cho mọi người, đó là việc chiếc xe hình như vừa vội vã đến từ một đám tang nào đó ở ngoại ô xa xôi. Nên khi vừa đỗ lại, cờ tang vẫn còn “đu đưa” trên đầu xe.
Nhận thấy nhiều ánh mắt nhìn chầm chầm, xôn xao vào “hình ảnh lạ”, người lơ xe đã “xúc động” vội vàng gỡ xuống.
Chiếc xe lượn đi nhiều nơi đã định rồi đậu lại ở Trung tâm Dã ngoại Cần Giờ. Nơi đây là địa điểm sẽ diễn ra nhiều hoạt động “trọng tâm” của Hội nghị.
Do buổi chiều hôm đó trời có mưa, với hơn 30 phút nghỉ ngơi dọc đường, xe đến chậm hơn dự định già một tiếng đồng hồ.
Theo danh sách thì có khoảng 72 đại biểu tham dự. Vài người vì công việc riêng không đến được. Số lượng đại biểu nữ nam tương đương nhau. Trong đó có hai vị tiến sĩ phê bình văn học, hiện đang giảng dạy ở các trường đại học phía Nam.
Việc lo liệu phòng ốc, ăn uống, vui chơi, dã ngoại,… hình như chỉ một mình nhà thơ - Chánh văn phòng Hội Phan Trung Thành “đạo diễn”. Một người lo cho non 100 người. Thật tội nghiệp cho anh, nhất là cách đây chưa lâu, anh vừa trở về từ bệnh viện. Di sản của cuộc trở về ấy vẫn còn được anh kiêng cữ, chăm sóc.
Đúng 20 giờ, một trò chơi mang tính giao lưu đã diễn ra trong không khí ấm áp vui nhộn, tràn tiếng cười, tiếng vỗ tay. Ngoài hội trường mưa rơi nặng hạt, gió lạnh rít từng cơn, từng cơn. Trò chơi là ý tưởng của nhà văn – đạo diễn Nguyễn Thu Phương. Nhờ một chút “sân khấu hoá” mà cuộc giao lưu rất lôi cuốn, giúp các nhà văn trẻ biết rõ nhau hơn.
Sau một đêm lạ nước lạ cái, có nhiều người trẻ khó ngủ, nhất là nhà văn nữ. Nhiều “chàng thơ trẻ” như Thanh Tùng, Lê Quang Trang, Phạm Sỹ Sáu,… lại không chịu ngủ, vì sợ lỡ mất trận chung kết “trong mơ” cúp C1 châu Âu, giữa MU và Barcelona.
8 giờ ngày 29.5, bước vào Hội thảo Văn học trẻ trong dòng chảy thị trường. Phải nói chân tình rằng, ấn tượng ngày khai mạc đã khiến rất nhiều nhà văn trẻ nản lòng. Nhưng mọi người vẫn đến. Cứ ngỡ đến cho có. Hội thảo sẽ nhạt, ai dè…
Trừ 15 phút đầu, thời gian cần thiết để khởi động làm nóng. Chủ toạ của Hội thảo là nhà thơ, nhà báo Phan Hoàng - Trưởng ban Nhà văn trẻ, cùng nhà văn Tiến Đạt - Phó ban, đồng cầm trịch. Hội thảo ngày càng mở, nóng lên theo từng giây từng phút, nhiều vấn đề được đem ra mổ xẻ gây cấn. Nhiều tham luận, ý kiến được phản biện sôi nổi, đa chiều chưa từng có trước đây, ở bất kỳ hội thảo văn học nào, từ Trung ương đến địa phương. Thời gian càng trôi về trưa, tay của các nhà văn trẻ giơ lên xin phát biểu, phản biện càng nhiều. Không khí xứ biển Cần Giờ dường như cũng “nóng” hơn cùng hội thảo!
Nhiều vấn đề được các đại biểu nhà văn trẻ gởi gắm, mong chờ như chuyện tài trợ in sách, giải thưởng, bản quyền, các hình thức đưa thơ đến công chúng, quảng bá tác phẩm,…
Hội thảo đã thành công ngoài kỳ vọng, ngoài sức tưởng tượng, lần đầu tiên có được như vậy.
Hội nghị kết thúc. Các đại biểu văn trẻ trở về trung tâm thành phố với nhiều ấn tượng đẹp. Những thành viên tham gia Trại Sáng tác văn học trẻ do nhà thơ Phan Hoàng phụ trách tiếp tục ở lại “đắm mình” trong sông nước Cần Giờ.

Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2011

Cảm nghĩ về thơ Việt hôm nay, dòng chảy từ các tác giả trẻ Chăm

(Tham luận sẽ đọc tại Hội nghị Những người viết văn trẻ TP.Hồ Chí Minh cuối tháng 5 năm 2011)

Nhắc đến Chăm, người ta thường nhớ ngay đến những ngọn tháp Chàm mọc lên đỏ rực, huyền thánh trên những quả đồi tươi xanh, lộng gió xuyên suốt miền Trung và Tây Nguyên hàng bao thế kỉ nay.

Nhắc đến Chăm, người ta cũng nhớ ngay đến những công trình nghiên cứu về lịch sử, kiến trúc, điêu khắc, những công trình về văn hóa Chăm, lễ hội dân gian, âm nhạc truyền thống,…của các nhà nghiên cứu tên tuổi trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Nhắc đến Chăm, người ta cũng nhớ ngay đến một dân tộc đã trải qua một thời kì lịch sử đầy biến động, lúc rực rỡ hưng thịnh, khi suy vi cực kì. Nay dân tộc đó đang sinh sống hòa bình, mến khách trên dải đất hình chữ S hùng vĩ, thơ mộng cùng cộng đồng 54 dân tộc anh em.

Và nhắc đến Chăm, những thế hệ người yêu thơ Việt, hẳn cũng còn nhớ đến tập thơ Điêu tàn của thi sĩ Chế Lan Viên, vào những thập niên đầu thế kỉ XX, thiên niên kỉ trước.

Và phải chăng chỉ có vậy? Phải chăng một dân tộc với nền văn minh chữ viết xuất hiện sớm vào loại tốp đầu khu vực Đông Nam Á, mà nền văn chương chẳng giới nào thèm đếm xỉa đến? Phải chăng lời tuyên bố của Paul Mus, nhà dân tộc học nổi tiếng thế giới người Pháp, giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX là sự thật? Ông ấy tuyên bố rằng: “Văn học Chăm chỉ có thể tóm gọn trong 20 trang giấy”, mà thôi.

Phải chăng Chăm là một dân tộc lại tiếp tục nghèo nàn về suy tư văn học đến vậy?. Với vỏ bọc ngôn ngữ mới là tiếng Việt, tâm hồn Chăm bỗng bị mắc kẹt, tự ti bởi rào cản ấy trong sinh hoạt đời thường, tư duy và sáng tạo nghệ thuật như nhiều người khác tộc nào đó từng nói từng nghĩ ư?

Dân tộc Chăm đã mất mát nhiều, điều đó ai cũng biết. Những học giả, nhà nghiên cứu tùy lĩnh vực chuyên môn của mình, đã công bố nhiều công trình liên quan đến dân tộc ấy. Họ trở nên có danh tiếng lớn. Công sức họ bỏ ra, thành quả họ được nhận lại tương xứng. Nhưng thử hỏi, ai dám dũng cảm đến khờ khạo bỏ cả đời mình đi nghiên cứu một dân tộc, mà biết trước dân tộc đó chẳng có hấp lực gì, sự xúc động nào đáng kể.

Và Chăm là một dân tộc hội tụ đầy đủ những điều đáng kể. Di sản hôm qua, đời sống cộng đồng xen cư, cộng cư hôm nay, đều là những đối tượng đáng để thể hiện. Không chỉ trong những công trình khoa học chuyên nghành, có lúc khô khan, đơn điệu, mà loại hình thơ ca, cô đọng, dễ nhớ dễ thuộc cũng phải can dự vào. Không phải can dự cho có, mà can dự như những bông hoa đẹp, ai ngắm cũng trầm trồ, trong vườn hoa đa sắc đa thanh ấy.

Những cái tên như Inrasara, Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Jalau Anưk, Chế Mỹ Lan, Bá Minh Trí, Thông Minh Diễm, v.v…đã xuất hiện vang vang kiêu hãnh. Mặc dù xuất hiện với tâm thế khác, ngôn ngữ khác nhưng họ rặt tâm hồn Chăm, thấm đẫm tinh thần minh triết Chăm.

Lời tuyên bố của Paul Mus ngày xưa, theo thời gian đã mất hoàn toàn giá trị. Công trình Văn học chăm, khái luận-văn tuyển của Inrasara ra đời năm 1994 đã vô tình hay cố ý xô ngã thảm hại lời tuyên bố có phần vội vã ấy.

Và với những tập thơ đã ấn hành vài năm trở lại đây của các tác giả trẻ Chăm, cũng đã phần nào chấm dứt tình trạng thương vay khóc mướn.

Từng ngóc ngách của đời sống, nơi họ đến, đi, trở về, được họ quến lại cảm xúc mình. Đặc sệt nồng độ, tươi rói hình ảnh, ngôn ngữ.

Ở nơi xó xỉnh nào đó, họ ở lại, dịu dàng tiếp biến ngữ cảnh hay cô đơn miệt mài định phận. Chẳng hề hấn gì, họ vẫn say sưa thắp sáng ngọn lửa thơ ca, ôm mang nó phiền muộn nhiệt tình trên mọi nẻo lãng du.

Chẳng hạn, khi đang trên đường từ Hà Nội thấm tràn cơn lạnh xuôi về phương Nam nắng gió rát rạt, nghe tin nước Nhật bị động đất sóng thần tàn phá, Đồng Chuông Tử đã bật chốt cửa lòng mặc những câu thơ trào ra cuồn cuộn, nghẹn ngào bên dòng Thu Bồn ở Hội An.

Có những lúc con rũ rượi một mình phía sau câu thơ vừa ngã rạp
ngôn ngữ nhỏ bé, hữu hạn, lạc lõng trợ duyên thâm trầm
tụ trên cánh đồng nắng như hạt muối buồn

Có những lúc con phụt khóc một mình phía trước màn hình
tin tức ngắn củn
xót tinh thể bụi

Mặt trời chợt lặn trên đất nước hằng mọc ánh sáng
Japan,11.3, cháy bùng ngọn sóng vỡ vạc bí bầu
trỗi thức lở lói

Japan, 11.3 thế giới nhận diện âm thanh gãy
đổ lênh láng mặt đất

Trang kế sẽ là thành phố trùm chăn ngủ
và gặt hái tâm hồn nhân loại ăn năn

Thượng Đế, cha vừa dựng lên xơ xác nỗi đục.
Yêu thương, quãng đại có là hư cấu?

Bài thơ này nằm trong tập thơ “Nội dung của cơn mưa”, tập thơ thứ ba sắp ra mắt của Đồng Chuông Tử.

Hay như Tuệ Nguyên phiêu lãng bốn mùa, thoắt Bắc thoắt Nam, thoắt miền Trung bão lũ thoắt Tây Nguyên xanh tươi, khí hậu mát mẻ. Anh có lần tâm sự là “đi để sống và tìm cảm giác sống” , còn trẻ không có nghĩa là vốn ít , thiếu năng lượng để nạp cho suy tư của mình. Trong bài thơ “Như một nghịch lí”, Tuệ Nguyên viết rằng: Khi họ thấy tôi ngước mắt nhìn họ ngờ nghệch – họ đưa ánh mắt về phía tôi, như trấn an ngầm: “Đối diện với sự thật như thế sẽ làm cho anh chẳng dễ chịu đâu!” Với tập thơ mới nhất sắp xuất bản có tên gọi “Mi và ngôn lời”, nhà văn Nguyễn Đình Chính viết tựa rằng “Thơ Tuệ Nguyên là những gam màu của lửa. Ai chưa hiểu, sẽ rất khó mà đồng cảm ngay được”.

Còn với Chế Mỹ Lan, nhà thơ nữ sinh năm 1975, hiện định cư ở Hoa Kỳ, trong tập thơ “Em và màu mây qua tháp” Nxb. Văn học ấn hành năm 2008, thì thơ là những hoài niệm về xứ sở xa xôi, nhớ thương quá khứ dịu vợi, nhớ cả những màu mây ngũ sắc bất giác  trôi qua đỉnh tháp quê mình. Chế Mỹ Lan viết rằng:

Màu mây trắng hay màu của nỗi nhớ
Tháp miệt mài đánh bạn với thời gian
Rừng không còn hoang, người vẫn biệt mù
Tháp đứng mãi cho đến ngày tận thế!

Một tác giả khác cùng sinh năm 1975 với Chế Mỹ Lan, là Jalau Anưk, anh là con trai đầu của thi sĩ quá cố Jalau, được độc giả biết đến với bài thơ Hạt sương của tôi, tham dự ở nhiều tuyển tập thơ cả nước. Bút danh Jalau Anưk là phiên âm la tinh từ tiếng Chăm, tiếng Việt có nghĩa là “Con của Jalau”. Anh là giáo viên tiếng Anh ở TP. HCM, thành viên biên tập đặc san Tagalau, Tuyển tập sáng tác-sưu tầm-nghiên cứu Chăm do Inrasara sáng lập và chủ biên. Thơ Jalau Anưk, theo Inrasara nhận xét là “ngồn ngộn hiện thực, có không khí hậu hiện đại, nhưng vẫn nồng đậm bản sắc Chăm”. Trong bài thơ “Dưới vòm trời là những mái nhà”, anh viết:

…Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoải đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe dalikal bà kể…

Với Bá Minh Trí, tác giả sinh năm 1979 tại Ninh Thuận từng đoạt giải thưởng thơ Bút Mới lần thứ 5 năm 2005, do Báo Tuổi Trẻ tổ chức. Hiện anh là Giám đốc Công Ty TNHH Bình Minh, chuyên doanh về các mặt hàng nông sản tại Phan Rang. Anh tâm sự: “Làm doanh nhân là trách nhiệm với vợ con, còn làm thơ là trách nhiệm của mình với cộng đồng”. Trong bài thơ “Triết lí lá vàng’ anh viết:

Cái cười ngoảnh lại và rớt quanh làng
Người đi
Câu hát dở dang, điệu bwei hrung* lỡ nhịp
Xalam xalam

Từ bạt ngàn đồi núi
Từ hanh hao gió nổi
Bàn chân trần vất vả tuổi thơ
Trôi dạt

Núi có trơ và sông có bạt
Em quên bẵng và plei lạ lẫm
Vẫn mong một ngày về
Tạ ơn

Cái cười ngoảnh lại và rớt quanh làng
Không lời tụng ca rình rang
của thầy paxeh
buồn vui bớ láng giềng
sao người còn múa hát
mai trở về
chắc vàng như lá cây
rơi
khi đã nhiệt tình xanh lặng lẽ.


Riêng Thông Minh Diễm, bút danh khác Diễm Sơn, tác giả sinh năm 1978 tại Bình Thuận. Học hết cấp ba, gia đình khó khăn, không có điều kiện học lên, anh thường trú quê nhà, tự học tiếng Chăm, mày mò nghiên cứu văn hóa mẹ đẻ, báo chí đăng rải rác ở tạp chí Dân tộc, Dân tộc và phát triển... Thơ anh chủ yếu xuất hiện ở đặc san Tagalau. Thơ anh không nhiều, nhưng bài nào cũng đặc sắc, tinh tế. Trong bài thơ “Người xóm cũ”, anh viết:

Người đàn bà đi ngược triền dốc
tay bưng li-i bám đầy bụi
bình thản người đàn bà cúi nhặt
phần thừa lại phân trâu sót khô
lấm lem đếm tuổi theo thời vụ
vừa lội qua một nhánh sông có bãi đá
lau lách mỗi ngày đời…

Xưa kia nơi đây có một con suối
urang còn nghe ia ru
đó là tiếng thì thào của dòng nước…!

Người đàn bà khải ngộ
giữa bãi trắng lầm bầm lang kar
gỡ chiếc khăn mư-thâm
che dung nhan
che tì vết
ngồi nhớ
hồi dara

Nhưng cánh cửa đền Ppo Dhat lúc nào cũng đóng
lỗi hẹn một mùa Cabbur
cũng chưa thấy một nhà trùng tu nào ghé tới thăm
người đàn bà có một con đường quanh queo
bàn chân vu vơ hoài mơ thiên sứ
chị gái Apsara bay đi tự lúc nào?!

Nhìn thấy người đàn bà Xóm Cũ
đứng buồn.

.v.v…

Những gương mặt thơ trẻ Chăm vừa phác họa ở trên, chỉ là những dòng định danh lược thuật ngắn củn, chắc chắn còn thiếu sót. Dân tộc Chăm là dân tộc yêu văn chương. Tâm hồn Chăm là tâm hồn đầy tràn nghệ sĩ tính. Một vài cái tên được nêu lên, chắc chắn không thấm tháp vào đâu. Nhưng họ, những cái tên vừa điểm danh ấy, cũng kịp tạo ra một diện mạo thơ, một dòng chảy lạ đậm đà bản sắc. Ô hay, với người làm công việc sáng tạo nói chung, đấy cũng là một sự tìm kiếm có khi vời vợi, nhọc nhoài.



Không những thế, với một tâm thế mới, cảm và nghĩ mới, họ đã thực sự kéo dài nền văn chương Chăm ra. Đồng thời hãnh tiến đóng góp vào nền văn chương Việt Nam, những câu thơ, những bài thơ, những tác phẩm thơ không trộn lẫn với ai.